日本とベトナムでは、日常生活で馴染みのある陽暦とともに大事な行事にもよく利用される陰暦が存在します。陰暦の呼び名は両国で異なっています。
日本では、1月から12月にかけて、それぞれの月に季節や行事に応じて「和風月名」があります。12月は「師走(しわす)」と呼び、僧侶たちが走る多忙な月という意味です。1月は年の始まりで行事が多く、この機会に仲睦まじさを深めるお付き合いをしようという意味で「睦月(むつき)」と名付けられています。
ベトナムでは、陰暦の12月と1月だけ特別な呼び方があります。なぜかというと、ベトナムでは旧正月をお祝いする風習があって、年の最後と最初の月が最も大事だといわれるからです。祖先の命日である陰暦の12月は「ThángChạp」、年で一番大事な行事の旧正月である1月は「Tháng Giêng」と呼ばれています。どちらの呼び方も、中国から伝わる漢字から由来されていますが、今ではベトナムの社会に定着しています。(国際交流員 グエン・チュック・リン)
Nhật Bản và Việt Nam ngoài dương lịch rất thân thuộc trong đời sống hằng ngày, còn tồn tại âm lịch thường được xemvào các ngày lễ trọng đại. Tên tháng âm lịch của 2 nước cũng khác nhau.
Ở Nhật, mỗi tháng từ 1 đến 12 đều được gắn với tên tháng kiểu Nhật (“Wafu-getsumei”) tương ứng với thời tiết và dịp lễ.Tháng 12 được gọi là “Shiwasu” viết bằng chữ “sư” trong nhà sư, và “tẩu” mang nghĩa là chạy, do đây là tháng mà các nhàsư ở chùa bận đến mức chạy ba chân bốn cẳng. Tháng 1 là tháng của sự khởi đầu, là tháng có nhiều ngày lễ quan trọng.Tháng này được đặt là “Mutsuki” viết bằng chữ “mục” có nghĩa là hòa nhã, thân thiết, với ý nghĩa là tháng có nhiều sự tiếpxúc, giao lưu, là cơ hội để làm sâu sắc mối thân tình giữa người với người.
Ở Việt Nam, duy nhất tháng 12 và tháng 1 âm lịch có cách gọi đặc biệt. Do Việt Nam có truyền thống đón tết âm nên thángcuối và đầu năm âm lịch là 2 tháng quan trọng nhất trong quan niệm dân gian. Tháng 12 có nhiều giỗ chạp (giỗ tổ tiên) nóichung nên gọi tháng này là Tháng Chạp, còn tháng 1 do có tết âm là ngày lễ quan trọng nhất năm nên gọi là Tháng Giêng.2 cách gọi này đều có nguồn gốc từ Hán tự Trung Quốc nhưng đã trở nên quen thuộc trong xã hội Việt Nam.
(Nguyễn Chúc Linh – Điều phối viên Quan hệ Quốc tế)
<この記事についてアンケートにご協力ください。>